
Hội thảo Khoa học Quốc tế Văn học, nghệ thuật người Việt Nam ở nước ngoài sau 50 đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 -2025)
Vào chiều ngày 28 /4/2025 tại Hà Nội, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức chương trình Hội thảo Khoa học Quốc tế Văn học, nghệ thuật người Việt Nam ở nước ngoài sau 50 đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 -2025). Chúng tôi đã tham dự online để có bổ sung thêm kiến thức qua những báo cáo tham luận của các diễn giả.
Chủ trì Hội thảo: GS,TS Nguyễn Xuân Thắng- Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương (LLTW); TS Phạm Tất Thắng – Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; PGS,TS Nguyễn Thế Kỷ – Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng LLTW.
Thư kí Hội thảo: TS Nguyễn Thế Bắc, TS Đỗ Thi Thu Huyền, – Biên tập viên Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật
Tham dự hội thảo trực tiếp và online có các Ủy viên Trung ương Đảng: Lê Quốc Minh, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; Hoàng Trung Dũng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo Hội đồng Lý luận Trung ương; lãnh đạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và hơn 150 nhà khoa học, văn nghệ sĩ là người Việt Nam đang sống, làm việc ở trong nước, nước ngoài và các học giả quốc tế.
Các tham luận trình bày trực tiếp trong Hội thảo như:
Vài suy nghĩ về phim của đạo diễn người Việt Nam ở nước ngoài, Tiến sĩ Ngô Phương Lan – Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam, Phó trưởng Tiểu ban Lí luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, Hội đồng Lí luận Trung ương




Một khía cạnh lịch sử giao lưu văn học, nghệ thuật Việt Nam và Nhật Bản qua kho tư liệu Hán Nôm được lưu trữ tại Thư viện Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Osaka– GS,TS Shimizu Masaaki – Giảng viên cao cấp Đại học Osaka, Nhật Bản
Giới thiệu dự án Truyện Kiều song ngữ Đức – Việt: Kết quả đã đạt được và kế hoạch thời gian tới, TS Trương Hồng Quang, người Việt Nam làm việc tại Cộng hòa liên bang Đức

Sáng tác khí nhạc của người Việt Nam ở nước ngoài, PGS,TS Nguyễn Thị Mỹ Liêm – Giảng viên cao cấp Trường Đại học Sài Gòn. Tham luận giới thiệu tác phẩm và thành tựu của các nhạc sĩ Nguyễn Văn Tường (1929-1996), Tôn Thất Tiết (1933), Nguyễn Thiên Đạo (1939-2015)


Lan tỏa và truyền cảm hứng sáng tác về một Việt Nam hòa bình
Phát biểu tại hội thảo, GS,TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh, hội thảo là hoạt động có nhiều ý nghĩa, góp phần khẳng định vai trò, đóng góp của văn học, nghệ thuật (VHNT) của kiều bào ta ở nước ngoài trong công cuộc đổi mới; lan tỏa và truyền cảm hứng sáng tác về một Việt Nam hòa bình, hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới.
GS,TS Nguyễn Xuân Thắng tin tưởng, qua Hội thảo này, văn học, nghệ thuật của đất nước, trong đó có văn học, nghệ thuật của người Việt Nam ở nước ngoài, sẽ có bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc hơn trên tinh thần dân tộc, khoa học, dân chủ, nhân văn. Đổi mới mạnh mẽ chủ đề, nội dung, phương pháp sáng tác; hoạt động lý luận, phê bình, dịch thuật; phát huy ưu điểm, kết quả, khắc phục hạn chế, bất cập, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI SAU 50 NĂM ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT, ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN
PGS,TS Nguyễn Thế Kỷ – Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương phát biểu: Từ sau 1945 và 1954, số người Việt Nam sinh sống và hoạt động văn học, nghệ thuật ở nước ngoài dần tăng, chủ yếu qua con đường du học, công cán dài ngày hoặc định cư ở nước ngoài. Ban đầu chủ yếu là du học sinh, người đi công tác hoặc định cư lâu dài, như Điềm Phùng Thị (sang Pháp 1948, nổi tiếng với điêu khắc từ 1959), Thụy Khuê (du học tại Pháp từ 1962, sau làm việc ở RFI), Đặng Tiến (giảng dạy văn học Việt tại Paris từ 1968) hay Phạm Công Thiện (sống ở châu Âu, định cư tại Mỹ từ 1983)… Từ thập niên 1960 trở đi, cộng đồng này ngày càng đông đảo, đặc biệt tại Liên Xô, Đông Âu, Hoa Kỳ, Pháp, Canada, Australia và nhiều nước châu Á.

Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện sự thay đổi rõ nét trong quan điểm về kiều bào. Nghị quyết 08-NQ/TW (1993) khẳng định người Việt ở nước ngoài là một phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc. Nghị quyết 36-NQ/TW (2024) và các văn kiện gần đây tiếp tục nhấn mạnh tinh thần hòa giải, đoàn kết dân tộc, tôn trọng sự khác biệt không đi ngược lợi ích quốc gia.
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, giao lưu và hợp tác giữa các tổ chức trong nước với văn nghệ sĩ Việt Nam ở nước ngoài đã có nhiều khởi sắc. Nhiều người trở về tham dự hội thảo, giao lưu, chia sẻ sáng tác, mang theo những cách nghĩ và giọng điệu sáng tạo mới mẻ. Không ít tác giả như GS Trần Văn Khê, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị hay nhạc sĩ Phạm Duy… đã trở về quê hương sau nhiều năm xa cách.
Để phát huy vai trò văn học nghệ thuật của người Việt ở nước ngoài, cần tiếp tục khẳng định chủ trương hòa hợp dân tộc, xem văn nghệ sĩ Việt ở hải ngoại là một phần không thể thiếu của nền văn hóa nước nhà. Đồng thời, cần khảo sát thực trạng sáng tác, các dòng chảy văn nghệ theo vùng, thể loại, nội dung, phương pháp sáng tác cũng như hoạt động lý luận – phê bình – dịch thuật. Cần đánh giá tiến trình giao lưu, tiếp biến giữa văn học nghệ thuật trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0.
PGS,TS Nguyễn Thế Kỷ đưa ra các đề xuất thiết thực với lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính quyền sở tại để tháo gỡ vướng mắc, khuyến khích sự phát triển của văn học nghệ thuật người Việt ở nước ngoài – một bộ phận hữu cơ góp phần vào sự phát triển chung của văn hóa dân tộc.

NHỮNG DÒNG CHẢY ÂM NHẠC VIỆT Ở NƯỚC NGOÀI TỪ SAU 1975 CHO ĐẾN NAY
Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên viết tham luận cho hội thảo này với đề tài “Những dòng chảy âm nhạc Việt ở nước ngoài từ sau năm 1975 đến nay”. Ông cho biết: đây là hội thảo có ý nghĩa nhất trong những ngày tháng Tư. Đúng với tinh thần bài phát biểu mới nhất của TBT Tô Lâm:
“Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng: mọi người Việt Nam, dù ở trong nước hay ngoài nước, dù từng đứng ở phía nào của lịch sử, đều cùng mang một cội nguồn, một ngôn ngữ, một tình yêu dành cho quê hương, đất nước.
Những năm qua, trong các chuyến công tác tới hầu khắp các châu lục, tôi đã có nhiều dịp gặp gỡ hàng ngàn đồng bào Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài – từ những trí thức trẻ lập nghiệp tại châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Đại Dương đến những doanh nhân thành đạt, nghệ sĩ nổi tiếng, người lao động bình dị ở các “miền đất mới”, kể cả nhiều người thuộc “phía bên kia” trước đây.
Mỗi cuộc gặp đều để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc: dù có thể khác biệt về quan điểm chính trị, trải nghiệm lịch sử hay điều kiện sống, họ đều mang trong lòng niềm tự hào dân tộc, đều là “con dân đất Việt”, và nỗi nhớ da diết với hai tiếng quê hương.
Tôi từng chứng kiến nhiều cuộc gặp gỡ đầy cảm động giữa các cựu chiến binh Việt Nam và cựu binh Hoa Kỳ – những người từng đứng ở hai bên chiến tuyến, từng cầm súng đối đầu, nay có thể bắt tay, trò chuyện, chia sẻ với nhau bằng sự thấu hiểu chân thành và không còn mặc cảm. Ngày hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ – từ cựu thù – đã trở thành Đối tác chiến lược toàn diện, cùng hợp tác vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì an ninh và ổn định khu vực.
Vậy thì không có lý do gì để những người Việt Nam – cùng chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, luôn đau đáu về một đất nước thống nhất, phồn vinh – lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và ngăn cách”.
Bài tham luận “Những dòng chảy âm nhạc Việt ở nước ngoài từ sau năm 1975 đến nay” của nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên: Năm 1975, sau sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng hòa, một bộ phận người Việt Nam liên quan chính quyền cũ rời khỏi Việt Nam với các hình thức di tản. Trong số những người lưu vong có nhiều nghệ sĩ, diễn viên, nhạc sĩ, ca sĩ. Trong hoàn cảnh ly hương, các nhạc sĩ cũ và mới tiếp tục sáng tác nhiều bài hát mới.
Có thể kể đến các dòng chảy nhạc Việt chính như sau.
1. Dòng nhạc về thân phận lưu vong:
Người di tản buồn – Nam Lộc, Ai trở về xứ Việt – Võ Tá Hân, Một chút quà cho quê hương – Việt Dzũng
2. Dòng nhạc hoài niệm và thương nhớ quê hương
Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt – Nam Lộc, Đêm nhớ trăng Sài Gòn – Phạm Đình Chương, thơ Du Tử Lê, Khi xa Sài Gòn – Lê Uyên Phương, thơ Kim Tuấn, Sài Gòn bây giờ buồn không em – Song Ngọc, Đêm nhớ về Sài Gòn – Trầm Tử Thiêng
3.Dòng nhạc tình ca
Nghìn năm vẫn chưa quên – Phạm Duy; Tình cầm – Phạm Duy, thơ Hoàng Cầm, Và con tim đã vui trở lại – Đức Huy, Tháng sáu trời mưa – Hoàng Thanh Tâm, thơ Nguyên Sa, Trái tim mùa đông – Trúc Hồ, Buồn vương màu áo – Ngọc Trọng, Dạ quỳnh hương – Phạm Anh Dũng, …
4.Dòng nhạc cộng đồng
Đây là những bài sinh hoạt ca, bài hát cộng đồng đã có từ trước năm 1975 ở trong nước, giờ được tiếp tục phát triển ở nước ngoài như Hội nghị Diên Hồng, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước, Không quân Việt Nam của Văn Cao, Xuất quân của Phạm Duy, các bài thanh niên ca của nhóm Đồng Vọng và của phong trào Hướng đạo Việt Nam như Bóng cờ lau, Nước non Lam Sơn của Hoàng Quý, Hùng Vương, Trưng Nữ Vương của Thẩm Oánh…
5. Dòng nhạc trẻ
Từ giữa thập niên 1990, cũng có nhiều nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn nhạc trẻ
– Pop: có Kristine Sa, Roni Trần Bình Trọng, Quỳnh Anh, Thanh Bùi, Tinna Tình, Vy Nguyễn, Shayla, Trish Thùy Trang…
– Jazz: Nguyên Lê, Hương Thanh (ở Pháp), Niels Lan Doky (ở Đan Mạch), Cuong Vu (thành viên Pat Metheny Group đoạt giải Grammy 2003), Jazzy Dạ Lâm…
– Nhạc đương đại (contemporary music, world music): Hoàng Ngọc Tuấn, Lê Tuấn Hùng, Teresa Mai… và các ca sĩ mới nổi lên như Lương Tùng Quang, Andy Quách, Nguyễn Thắng, Cát Tiên, VPop, Asia4, Dương Triệu Vũ…
6. Dòng nhạc cổ truyền và bán cổ điển Tây phương
Song song với các hoạt động nghiên cứu trong nước, ở nước ngoài các nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam tại Hoa Kỳ như Nguyễn Thuyết Phong, Nguyễn Lê Tuyên, Nguyễn Tuấn Khanh đã có nhiều công trình và đi thuyết giảng nhiều nơi khắp thế giới cũng như phát hành dĩa nhạc, sách để quảng bá cho nhạc cổ truyền Việt Nam. Nhạc sĩ Cung Tiến có tấu khúc Chinh phụ ngâm (1987), nhạc đương đại Lơ thơ tơ liễu buông mành (2003). Nhạc sĩ trẻ Phan Quang Phục có nhiều nhạc phẩm được trình diễn khắp năm châu.
Tại Pháp có các nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, Trần Văn Khê, Trần Quang Hải, Nguyễn Thiện Đạo đã bắt đầu chú ý đến việc phục hồi Nhã nhạc cung đình Huế. Phương Oanh đã mở nhiều lớp dạy đàn tranh. Về sáng tác, NS Nguyễn Văn Tường viết bài Cộng Tồn, Về Nguồn. Nguyễn Thiên Đạo có nhạc phẩm Thành đồng Tổ quốc, Khóc Tố Như, Mỵ Châu Trọng Thủy. Tôn Thất Tiết có Tứ đại cảnh, Hy vọng, Ngũ hành, Chu kỳ 1 tới 5, Kiếm Ai, Tranh… Trương Tăng có Fujiyama, Dạ Hương, Mẹ… Trần Quang Hải có Shaman, Trở về nguồn cội…
Nhìn chung trong dòng chảy âm nhạc người Việt Nam ở nước ngoài, ngoài một số bài hát mang tính chất chính trị thời gian đầu của cuộc tị nạn giờ đã phai dần theo năm tháng, các bài hát viết về quê hương, các bài tình ca của các nhạc sĩ người Việt Nam ở nước ngoài là tiếng nói chân thành của con tim, còn có thể được hát lâu dài trong các sinh hoạt nghệ thuật trong và ngoài nước và sẽ được lưu giữ mãi trong lòng người Việt Nam.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ QUẢNG BÁ VĂN HỌC VIỆT NAM CỦA DU HỌC SINH VIỆT NAM TẠI ĐÀI LOAN

Trong bài tham luận Tình hình nghiên cứu và quảng bá văn học Việt Nam của du học sinh Việt Nam tại Đài Loan (Trung Quốc), GS,TS Trần Ích Nguyên (Chen Yi Yuan) cho biết Trong 50 năm qua, 66 lưu học sinh Việt Nam đã hoàn thành 84 luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ về văn học Việt Nam tại 25 trường đại học ở Đài Loan.
Hiện nay tại Đài Loan đã có bốn luận án tiến sĩ của lưu học sinh Việt Nam được xuất bản chính thức gồm Nghiên cứu về giao lưu Phật giáo giữa miền Nam Trung Quốc và Việt Nam trong thế kỷ XVII của Phạm Văn Tuấn; Nghiên cứu về Yến hành lục Việt Nam giai đoạn 1849-1877 của Nguyễn Hoàng Yến; Nghiên cứu về tác phẩm Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập của vua Tự Đức của Nguyễn Phúc An, và Sự truyền bá và ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa và Kim Vân Kiều truyện tại miền Nam Việt Nam của Nguyễn Thanh Phong, qua đó đã mở rộng thêm tầm ảnh hưởng học thuật của các công trình này.

Có 5 luận án tiến sĩ của lưu học sinh Việt Nam liên quan đến các chủ đề thần thoại truyền thuyết Hùng Vương, truyền thuyết về tín ngưỡng thờ Mẫu, …trong đó đáng chú ý là luận án tiến sĩ của Bùi Quang Hùng thần thoại truyền thuyết Hùng Vương đã được xuất bản chính thức tại Đài Loan, giúp cho nhiều độc giả trong thế giới Hoa ngữ hiểu sâu hơn về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương- di sản văn hoá phi vật thể đại diễn của nhân loại được UNESCO ghi danh năm 2012
GS,TS Trần Ích Nguyên (Chen Yi Yuan) và Tô Mẫn Dật đã trực tiếp hướng dẫn luận án tiến sĩ “Từ Đài Loan đến Việt Nam: Lịch sử tiếp nhận văn học và ý nghĩa của nó (2022), nghiên cứu sinh Trịnh Thuỳ Trang, khoa văn học Trung Quốc, đại học Thành Công, tập trung so sánh các tác giả tiên phong trong tân văn học Đài Loan là Lại Hà (1894-1943) với Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) của Việt Nam,… Công trình này đã tạo dựng nền tảng vững chắc cho độc giả Đài Loan trong việc tìm hiểu các tác giả Việt Nam như Nguyễn Trọng Quản, Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Ngọc Tư.
GS,TS Trần Ích Nguyên (Chen Yi Yuan) đưa ra 3 kiến nghị:
1/ Chúng ta cần quan tâm đến việc lựa chọn đề tài và định hướng nghiên cứu văn học Việt Nam của lưu học sinh Việt Nam tại Đài Loan
2/ Chúng ta cần khuyến khích lưu học sinh Việt Nam xuất bản các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ của họ tại Đài Loan
3/ Chúng ta cần tổ chức lực lượng lưu học sinh Việt Nam tại Đài Loan vào việc hỗ trợ quảng bá văn học Việt Nam tại Đài Loan

Trong tháng sau, bản dịch tiếng Trung Đài Loan của Lược sử văn học Việt Nam do Trần Đình Sử chủ biên sẽ xuất bản ra mắt chính thức. Thế hệ thứ hai của cộng đồng di sân mới gốc Việt tại Đài Loan sẽ là những độc giả tiềm năng của Lược sử văn học Việt Nam
Kho tư liệu Hán Nôm Việt Nam hơn 100 năm tuổi tại Đại học Osaka
Trong tham luận tại hội thảo 50 năm giao lưu văn học nghệ thuật Việt Nam – Nhật Bản, Shimizu Masaaki (Đại học Osaka) giới thiệu kho tư liệu Hán Nôm Việt Nam quý hiếm hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Khoa Ngoại ngữ, Đại học Osaka, Nhật Bản.
Kho tư liệu này đã hiện diện tại trường từ khi Trường Ngoại ngữ Osaka được thành lập vào năm 1921, và được cứu thoát khỏi vụ không kích dữ dội năm 1945 nhờ hành động dũng cảm của Giáo sư Shirai Tadashi. Hiện kho sách vẫn còn được bảo tồn với khoảng 60.000 đầu sách, trong đó có ít nhất 17 bộ tư liệu Hán Nôm Việt Nam.

Một số sách quý tiêu biểu như Thọ mai gia lễ (1915), Nhị độ mai tân truyện (1919), Từ hàn tân san (1920)… đều mang dấu triện xác lập từ năm 1922. Phát hiện ban đầu đến từ Shimizu Masaaki khi còn là sinh viên trong quá trình tra cứu hệ thống phân loại cũ của thư viện.

Tiếp nối truyền thống học thuật, Shimizu Masaaki cùng các nhà nghiên cứu Việt Nam như TS. Phạm Văn Luân, TS. Nguyễn Hồ Phong, và nghệ sĩ dân gian Ogasawara Hiroo đang tích cực thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua các dự án số hóa tư liệu Hán Nôm và nghiên cứu nhân vật lịch sử như Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Đạo Dừa…
Nổi bật gần đây là dự án hợp tác giữa Đại học Văn hóa TP.HCM, Đại học Fulbright Việt Nam và Đại học Osaka, nhằm khảo cứu và số hóa các tư liệu cổ trong dân gian – mở rộng cơ hội giao lưu học thuật, văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản trong kỷ nguyên số.

Điều đáng nói hơn cả là ở giá trị kết nối của nguồn tư liệu Hán Nôm này với các hoạt động giao lưu văn học nghệ thuật khác được thực hiện trên nền tảng các nghiên cứu và giao lưu học thuật sôi nổi từ năm 2022 đến nay, những hoạt động dầy nỗ lực xứng đáng là những điểm son của hoạt động giao lưu văn học nghệ thuật Việt Nam ở Nhật Bản 50 năm qua. Đáng kể như các công trình của các tác giả: Shimizu Masaaki (hợp tác với TS. Phạm Văn Luân), TS. Izawa Ryosuke, Nghệ sĩ dân gian Ogasawara Hiroo (hợp tác với TS. Phạm Văn Luân), TS. Izawa Ryosuke, (hợp tác với TS. Nguyễn Hồ Phong), Kondo Mika… xoay quanh các nội dung rất ý nhiều ý nghĩa như: danh nhân Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, ông Đạo Dừa – Kỹ sư Nguyễn Thành Nam… và các hiện tượng giáo dục nghệ thuật dân gian như hợp tác đưa múa Rối nước vào nhà trường…
Văn học nghệ thuật Việt Nam từ góc nhìn Ucraina: Giao lưu, tiếp nhận và kết nối văn hóa
Tại hội thảo kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, đạo diễn – nhà sản xuất Olena Ivanchenko (Kyiv, Ukraina) đã trình bày tham luận về quá trình tiếp nhận và lan tỏa văn học nghệ thuật Việt Nam tại Ukraina, đồng thời giới thiệu vở rối Lục Vân Tiên – một điển hình hợp tác sân khấu Việt– Ukraina thời hiện đại.

Bà điểm lại quá trình giao lưu văn hóa giữa hai quốc gia bắt đầu từ đầu thập niên 2010 với các chương trình “Những ngày văn hóa Việt Nam/Ucraina” diễn ra luân phiên. Nhiều hoạt động như biểu diễn nghệ thuật, xuất bản thơ Taras Shevchenko, dịch thuật và tổ chức liên hoan phim đã góp phần thắt chặt mối quan hệ văn hóa song phương. Từ năm 2022, Ucraina tham gia Liên hoan phim EU tại Việt Nam và dàn dựng thành công vở rối Lục Vân Tiên chuyển thể từ truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu, biểu diễn tại Kyiv với sự hiện diện của đại diện Đại sứ quán Việt Nam.
Trong phần trọng tâm, đạo diễn Olena chia sẻ quá trình chuyển thể Lục Vân Tiên sang sân khấu múa rối sử dụng tiếng Ucraina, với 30 nhân vật rối, phục trang dân tộc Việt Nam, kết hợp yếu tố truyền thống và ngôn ngữ hình thể. Vở diễn được đón nhận nồng nhiệt, khơi dậy sự tò mò và yêu thích văn hóa Việt từ giới trẻ Ucraina. Bà khẳng định Lục Vân Tiên có thể sánh ngang với Eneida – kiệt tác văn học dân gian Ucraina – về giá trị giáo dục, nhân văn và tinh thần dân tộc.
Bà Olena Ivanchenko cho biếtbuổi công diễn đầu tiên vở Lục Vân Tiên, được tổ chức tại hội trường Thư viện Trung ương mang tên T. G. Shevchenko, với sự hiện diện của Đại sứ cùng cán bộ nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Ucraina. Ngay từ khi có tin về một vở kịch Việt Nam được trình diễn bằng tiếng Ucraina, công chúng đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt. Buổi công diễn đã thành công rực rỡ, mở ra một hướng đi mới cho sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Ucraina, đồng thời là minh chứng rõ ràng cho sức mạnh của nghệ thuật trong việc kết nối con người, bất chấp mọi khó khăn và thử thách.
Tham luận cũng ghi nhận nỗ lực của các dịch giả như Maiya Kashel – người đã chuyển ngữ nhiều tác phẩm văn học Việt, bao gồm cả Lục Vân Tiên, và được trao Giải thưởng Văn học quốc gia Ucraina. Trong bài trình bày của mình, Olena Ivanchenko đã dành nhiều thời lượng bày tỏ lòng biết ơn đến Nhóm Sáng tạo Trẻ Bến Tre, Tạp chí Lý luận phê bình VHNT Trung ương, trường ĐH Văn hóa Tp. Hồ Chí MInh đã đồng hành, hỗ trợ Olena Ivanchenko trong suốt quá trình dựng vở diễn và thực hiện bài tham luân, trình bày tại Hội thảo này…
Trong phần giải pháp tới, Olena Ivanchenko đề xuất mở rộng các chương trình trao đổi nghệ sĩ, phát triển sân khấu tương tác, tổ chức hội thảo, lễ hội văn hóa và số hóa tư liệu văn học để đưa di sản hai nước đến gần hơn với thế giới. Thông qua nghệ thuật, bà nhấn mạnh, “chúng ta có thể vượt qua rào cản ngôn ngữ, tạo nên sự đồng cảm và xây dựng những cây cầu văn hóa vững bền giữa các dân tộc.”
Với gần 70 tham luận của các học giả, nhà nghiên cứu, đạo diễn, nghệ sĩ trong và ngoài nước, hội thảo khoa học quốc tế đã phác họa bức tranh toàn cảnh về văn học, nghệ thuật của người Việt và người gốc Việt ở nước ngoài trong suốt 50 năm qua. Từ lý luận, phê bình, tiếp nhận cho đến sáng tác và chuyển thể nghệ thuật, các tham luận không chỉ làm sáng tỏ những đóng góp quan trọng của cộng đồng Việt kiều trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, mà còn mở ra những triển vọng mới trong giao lưu, hợp tác văn hóa quốc tế. Những bài tham luận minh chứng sinh động cho sức sống bền bỉ và lan tỏa của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay đồng thời có nhiều ý kiến đóng góp thiết thực để tiếp tục quảng bá rộng rãi văn học, nghệ thuật Việt Nam trên khắp năm châu.
Bài LÊ NGỌC HÂN, Ảnh: TLSTT