Tin Tức & Sự Kiện
HÀNH TRÌNH ĐẾN LỆ CHÂU HỘI QUÁN: KHÁM PHÁ DẤU ẤN DI SẢN VÀ CÂU CHUYỆN TƯ LIỆU CỔ

HÀNH TRÌNH ĐẾN LỆ CHÂU HỘI QUÁN: KHÁM PHÁ DẤU ẤN DI SẢN VÀ CÂU CHUYỆN TƯ LIỆU CỔ

Trong khuôn khổ học phần Lý luận văn hoá, để gắn lý thuyết với thực tiễn và trau dồi thêm kỹ năng nghiên cứu, vừa qua chúng tôi – nhóm sinh viên năm 2 lớp 19.2.1 Khoa Quản lý Văn hoá, Nghê thuật trường Đại học Văn hoá TP.HCM đã tổ chức một chuyến khảo sát tại Hội quán Lệ Châu, một hội quán cổ kính nằm giữa khu vực phường Chợ Lớn, TP. HCM. Đây không chỉ là dịp để tìm hiểu những trang tư liệu cổ Hán Nôm quý giá, mà còn là cơ hội để chúng tôi quan sát, cảm nhận sâu sắc hơn những giá trị văn hoá truyền thống vẫn đang hiện hữu giữa lòng đô thị sầm uất.

Hình 1: Nhóm sinh viên chúng tôi đến tham quan Hội quán Lệ Châu (phường Chợ Lớn, TP.HCM). Ảnh: Minh Hiếu

Nhóm chúng tôi gồm 5 người xuất phát từ Trường Đại học Văn hoá TP. HCM lúc 7 giờ sáng ngày 20/09/2025, hướng về Hội quán Lệ Châu toạ lạc tại phường Chợ Lớn, quận 5. Sau quãng đường dài hơn 13 km mất gần một giờ đồng hồ di chuyển nhóm đã đến nơi.

Sau khi chào hỏi, chúng tôi được ông Trần Văn Tư (80 tuổi, Phó Ban quản trị, Tổng Thư ký Hội quán) đồng thời là người trông coi hội quán niềm nở đón tiếp và giới thiệu sơ lược về lịch sử hình thành nơi đây.

 Hình 2: Ông Trần Văn Tư giới thiệu về Hội quán Lệ Châu. Ảnh: Gia Linh

Như một phép lịch sự, nhóm chúng tôi chuẩn bị hoa và thành kính dâng hương tại chánh điện. Không gian chánh điện bên trong tuy không quá rộng nhưng lại đủ sức khiến chúng tôi trầm trồ bởi vẻ cổ kính và linh thiêng. Chánh điện được chia làm ba gian thờ: gian chính là “Tổ Sư”, hai gian tả hữu là “Tiền Hiền” và “Hậu Hiền”. Nơi đây tưởng niệm các vị tổ nghề kim hoàn, trong đó có cha con Cao Đình Độ và Cao Đình Hương, được triều Nguyễn truy phong là Tổ sư nghề. Ngoài ra, hội quán còn thờ tam vị tổ sư họ Trần – những người đầu tiên truyền dạy nghề ở Nam Bộ và tam vị tổ sư họ Huỳnh, có công đưa nghề lan rộng ra Phan Thiết (cũ) và Nam Trung Bộ. Khói hương lan tỏa khiến không gian cổ kính càng thêm phần trang nghiêm để lời tri ân của chúng tôi trở nên sâu lắng hơn.

Hình 3: Chánh điện nơi thờ cúng ông tổ nghề thợ bạc và bậc hậu bối. Ảnh: Thảo Ly

Sau khi dâng hương, chúng tôi có dịp quan sát kỹ hơn không gian bên trong hội quán. Hai bên vách tường là 4 tấm bia đá đặt đối nhau ghi công đức của các mạnh thường quân, đệ tử nghề thợ bạc khắp Nam kỳ lục tỉnh (cũ) đã góp sức trùng tu (có bia niên đại các năm 1895, 1916, 1920) cùng bảng ghi danh Ban quản trị hội quán qua từng giai đoạn. Tấm cổ nhất có từ năm 1895 vẫn được trân trọng giữ gìn dù cho có tấm đã bị hư hại do những vết đạn của một thời loạn li. 

                                  Hình 4: Bia đá ở Hội quán. Ảnh: Gia Linh

Không gian chánh điện nổi bật với 9 bức hoành phi và 6 cặp câu đối sơn son thếp vàng, cùng hệ thống bao lam, liễn đối chạm khắc tinh xảo. Nội dung các văn bản Hán Nôm này ca ngợi công đức tổ sư, đề cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và khẳng định niềm tự hào của giới thợ bạc về nghề truyền thống. Ngoài ra, hội quán còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như chuông, trống lớn, tất cả đều như những chứng nhân sống động cho sự gắn bó bền chặt của cộng đồng thợ kim hoàn qua các thế hệ.

Hình 5: Hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng. Ảnh: Gia Linh

Đặc biệt, hội quán hiện còn bảo tồn hai sắc phong của triều Nguyễn – những văn bản Hán Nôm có giá trị lịch sử và pháp lý ghi nhận vị trí, công lao của tổ nghề kim hoàn. Đây chính là tư liệu quan trọng khẳng định sự tồn tại, vai trò và ý nghĩa của hội quán trong đời sống văn hóa cộng đồng từ hơn một thế kỷ trước.

Hình 6,7: Hai sắc phong của vua triều Nguyễn. Ảnh: Gia Linh

Sau khi tham quan, chúng tôi ngồi lại để lắng nghe câu chuyện từ ông Trần Văn Tư. Chúng tôi được biết ông đã dành nửa đời mình gắn bó với Hội quán, lặng lẽ trông coi từng gian thờ, từng bức hoành phi, sắc phong, câu đối. Khi được hỏi về công việc thường ngày, ông chỉ khiêm tốn chia sẻ rằng chủ yếu lo quét dọn, hướng dẫn khách, còn việc bảo quản tư liệu cổ Hán Nôm thì có bộ phận chuyên trách. Ông nói chậm rãi: “Trong khả năng thì mình làm được tới đâu hay tới đó.”

Hình 8: Nhóm chúng tôi lắng nghe ông Tư chia sẻ về công tác quản lý Hội quán Lệ Châu. Ảnh: Minh Hiếu

Câu trả lời mộc mạc ấy khiến chúng tôi suy nghĩ rất nhiều. Di sản Hán Nôm vốn là lớp ký ức quý giá của quá khứ vẫn hiện diện ở đây thế nhưng để tồn tại bền lâu lại cần biết bao công sức gìn giữ. Chúng tôi nhận ra việc bảo tồn tư liệu cổ không chỉ nằm ở những phương pháp khoa học hay thiết bị hiện đại mà còn ở sự kiên trì và tình yêu âm thầm của những con người trọn đời gắn bó với di sản.

Nhìn quanh hội quán, những tư liệu Hán Nôm vẫn lặng lẽ tỏa ra sức sống riêng nhưng không phải ai cũng đủ kiên nhẫn dừng lại đọc và tìm hiểu. Phần đông khách tham quan chỉ nhìn thoáng qua, chụp vài bức ảnh rồi rời đi. Điều này khiến chúng tôi tự hỏi: bản thân chúng tôi là những sinh viên khoa Quản lý Văn hóa, Nghệ thuật đã thật sự quan tâm đúng mức tới những trang chữ Hán Nôm ấy chưa, hay đôi khi cũng chỉ dừng ở cái nhìn hời hợt ban đầu?

Buổi trò chuyện ngắn ngủi với ông Tư đã để lại cho chúng tôi một bài học sâu sắc: tư liệu cổ Hán Nôm chỉ thật sự có giá trị khi được cộng đồng quan tâm, tìm hiểu và lan tỏa. Nếu thế hệ trẻ thờ ơ, để mặc chúng ngủ yên thì những di sản ấy sẽ mãi chỉ là những vật thể câm lặng.

Kết thúc chuyến đi, chúng tôi trở về với nhiều cảm xúc đan xen, vừa trăn trở, vừa thôi thúc. Trăn trở vì những tư liệu cổ Hán Nôm đang cần nhiều hơn sự quan tâm và thôi thúc vì thế hệ sinh viên hôm nay có thể trở thành cầu nối để di sản bước ra khỏi sự lặng lẽ đến gần hơn với đời sống hay không.

Cuối cùng, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy TS. Phạm Văn Luân hiện đang là giảng viên phụ trách học phần Lý luận văn hoá, Trường Đại học Văn hoá TP. HCM, người đã định hướng và khích lệ chúng tôi thực hiện chuyến đi này. Chính sự dẫn dắt của thầy đã giúp chúng tôi không chỉ có thêm trải nghiệm thực tế mà còn học được cách nhìn nhận và trân trọng hơn đối với những di sản văn hoá, đặc biệt là tư liệu Hán Nôm. Và hơn hết, chúng tôi tin rằng những tư liệu cổ Hán Nôm tại Hội quán Lệ Châu sẽ tiếp tục được thế hệ mai sau nâng niu và giữ gìn để tiếng nói của quá khứ còn vang vọng mãi trong hôm nay.

Gia Linh – Thảo Ly