
Lễ nhạc tương hoà: KHÁM PHÁ HÀNH TRÌNH ĐI SỨ TRUNG HOA VÀ GIỚI THIỆU SÁCH “Thơ đi sứ triều Nguyễn: ý thức dân tộc và đối thoại văn hoá”.
Sáng ngày 5/5/2025, phòng nghiên cứu Hán Nôm khoa Văn học tổ chức buổi sinh hoạt khoa học Lễ nhạc tương hoà: KHÁM PHÁ HÀNH TRÌNH ĐI SỨ TRUNG HOA VÀ GIỚI THIỆU SÁCH “Thơ đi sứ triều Nguyễn: ý thức dân tộc và đối thoại văn hoá”. Điều phối chương trình là tiến sĩ Nguyễn Hoàng Yến, cũng là đồng tác giả của sách. Phó giáo sư tiến sĩ Lê Quang Trường, chủ biên tập sách. Đặc biệt có sự tham dự của giáo sư tiến sĩ Trần Ích Nguyên (陳益源 Chen Yi-Yuan), đến từ Khoa Văn học Trung Quốc, Trường Đại học Quốc lập Thành Công (National Cheng Kung University).

Triều Nguyễn chính thức thành lập năm 1802 và kết thúc năm 1945 khi vua Bảo Đại thoái vị. Trong 143 năm đó thực tế triều Nguyễn nắm chủ quyền đất nước và thực hiện các nhiệm vụ bang giao với Trung Hoa và các nước trong khu vực từ năm 1802 đến 1883 các triều đại Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ba mươi sứ đoàn chính thức được cử đi công vụ đã để lại nhiều tác phẩm bút lục và thi tập quý giá. Cuốn sách “Thơ đi sứ triều Nguyễn: ý thức dân tộc và đối thoại văn hoá” là một phần kết quả nghiên cứu thuộc đề tài “Thơ đi sứ Trung Quốc của nho thần triều Nguyễn: nghiên cứu và dịch thuật” do PGS.TS Lê Quang Trường làm chủ nhiệm, sách in và nộp lưu chiểu vào đầu tháng 4/2025.

Sách dày 560 trang, mục lục sách gồm 18 bài nghiên cứu trong đó khảo sát tác phẩm các tác giả như Lý Văn Phức (1785-1849) vị sứ thần nổi tiếng có hơn 11 chuyến công du; 2 sứ thần Nam bộ Trương Hảo Hợp (1795-1851) đi sứ Trung Hoà vào năm 1830 và 1845 – Vương Hữu Quang (?-1854?) đi sứ Trung Hoa vào năm 1845 và 1848, Trịnh Hoài Đức (1764-1825) đi sứ năm Nhâm Tuất 1802; Nguyễn Du (1765-1820) năm 1813 đi sứ sang Thanh tuế cống theo lệ, ….

Năm 2017, giáo sư tiến sĩ Trần Ích Nguyên có chuyến điền dã khảo sát địa điểm khắc thơ, lập bia của các sứ thần Việt Nam tại Trung Quốc là miếu Nhạc Vương tại Thang Âm, Hà Nam.
Sứ giả Việt Nam dùng nhiều tên khác nhau để gọi miếu Nhạc Vương như Nhạc Vũ Mục Vương tử, Nhạc Vũ Mục cổ lý, Nhạc Vũ Mục Vương miếu, Nhạc miếu, … trong chuyến khảo sát, GS-TS Trần Ích Nguyên (Chen Yi-Yuan) thấy bảng tên miếu để ở cổng ghi là Tống Nhạc Trung Vũ Vương miếu, vì thế bài nghiên cứu thống nhất gọi là Nhạc Vương miếu.
Căn cứ vào tư liệu thơ văn chữ Hán của Việt Nam có ít nhất 8 ghi chép các sứ thần từng khắc thơ, lập bia tại nhiều địa điểm ở Trung Quốc thời nhà Thanh bao gồm (1) chùa Phi Lai ở Thanh Viễn, Quảng Đông; (2) chùa Tương Sơn ở Toàn Châu, Quế Lâm, Quảng Tây; (3) rừng bia Vũ Khê ở Kỳ Dương, Hồ Nam; (4) lầu Đằng Vương ở Nam Xương, Giang Tây; (5) đền Nhạc Vương ở Thang Âm, Hà Nam; (6) đền Lã Tiên ở Hàm Đan, Hà Bắc; (7) miếu Á Thánh (Mạnh Tử) ở huyện Trâu, Sơn Đông; và (8) miếu Trọng Phu Tử (Tử Lộ) ở Tế Ninh, Sơn Đông

Khảo sát thực địa miếu Nhạc Vương tại Thang Âm, Hà Nam kết quả cho thấy:
Bài thơ “Yết Nhạc Vương tử” của Phạm Hy Lượng (1817) không còn tại miếu.
Phát hiện những bia, thơ quý giá khác:
1. Yết Thang Âm Nhạc Trung Vũ Vương miếu của Vương Hữu Quang
2. Thang Âm yết Nhạc Trung Vũ Vương miếu của Mai Đức Thường
3. Bia quyên ngân lượng của Phan Huy Vịnh, Phạm Chi ương
4. Yết Thang Âm Nhạc Mục Vương từ kính đề của Nguyễn Tư Giản,
5. Thang Âm yết Nhạc Vũ Mục Vương tử của Nguyễn Thuật
6. Yết Nhạc Trang Vũ từ của Trần Khánh Tiến.
Giáo sư tiến sĩ Trần Ích Nguyên (Chen Yi-Yuan) kết luận Việc bất ngờ phát hiện những tấm bia thơ trong chuyến khảo sát cho thấy nếu như chỉ nghiên cứu trên tư liệu ghi chép còn lưu lại mà không tiến hành điều tra thực địa thì không thể thu thập được những tư liệu giá trị học thuật lớn. Chẳng những khám phá tác phẩm thơ văn đi sứ của sứ giả Việt Nam mà còn quan trọng trong nghiên cứu lịch sử giao lưu văn hoá hai nước Việt-Trung.

Trong bài “Ý thức dân tộc quốc gia và đối thoại văn hoá trong hành trình hoàng hoa của các sứ thần triều Nguyễn”, PGS-TS Lê Quang Trường đại diện nhóm tác giả cho biết con đường đi sứ của các sứ giả Việt Nam triều Nguyễn xuất phát từ kinh đô Phú Xuân Việt Nam sang đến Bắc Kinh dài hơn tám ngàn dặm. Các đoàn sứ thường phải mất hơn một năm mới có thể hoàn thành chặng đường đi sứ, có đoàn gặp dịch bệnh hay gặp loạn gần ba năm mới có thể trở về.
Sứ đoàn năm 1802 do Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ có viên thông ngôn chết, sau đó ông cùng Ngô Nhơn Tịnh phải tự đối đáp với người Trung Quốc. Sứ đoàn do Lý Văn Phức làm chánh sứ đi sang Trung Quốc năm 1841, có viên hành nhân tứ đẳng thị vệ Hoàng Văn Sưởng ốm chết….
Đạo viễn gian quan nhậm trọng đài,
Tự thương sàn nhược bị phong ai.
(Đường xa cách trở núi non, trách nhiệm nặng nề
Tự thương cho thân mình yếu ớt phải dầu dãi gió bụi)
Trích Quan quang tập, Trịnh Hoài Đức.
Dù khó khăn gian khổ, các sứ thần với trọng trách quốc gia nên dù mang tâm trạng nhớ quê nhưng đồng thời cũng không quên trách nhiệm của đất nước đang đè nặng trên vai.
Trên hành trình đi sứ Trung Quốc, các sứ thần Việt Nam luôn quan sát sinh hoạt đời sống ở xứ người, quan sát phong tục và ghi chép lại qua thơ văn. Như Trương Hảo Hiệp ghi chép trên đường về cảnh vật đời sống người dân ở Lâm Dĩnh: đất đai chỉ trồng toàn lúa mì, chợ không bán ngũ cốc, tai lợn to lớn, đầu vịt bạc màu.
Dù sứ mệnh đi sứ mỗi lần mỗi khác, các sứ thần nước An Nam luôn ý thức rõ tinh thần dân tộc và cương vực văn hoá nước Nam. Đặc biệt, một số nho thần tham gia chính sự và đi sứ là người Việt gốc Hoa, người Minh hương, Thanh hương như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Trương Hảo Hiệp, Phan Thanh Giản, Vương Hữu Quang, Lý Văn Phức…. thế nhưng tinh thần Đại Việt và niềm ái quốc sâu sắc chẳng kém các sứ thần gốc Việt.
Trịnh Hoài Đức ý thức rất rõ về cương vực quốc gia:
Nam Quan vô sự lạc tình đa,
Trung ngoại dân di kích nhưỡng ca.
…Ký ngữ chướng lam kim tự tích,
Phi diên thiếp thiếp truỵ hồng ba
(Ải Nam Quan thảnh thơi, vui vẻ vô cùng. Nhân dân hai nước ca hát cảnh thái bình… Gửi lời rằng lam chướng nay vẫn như xưa, Chim diều hâu bay lượn vẫn rơi xuống làn sóng lớn) Quan Quang tập, Trịnh Hoài Đức.


Ngoài ra còn nhiều đề tài nghiên cứu khác như Vương Hữu Quang và những khúc ngâm vịnh trên đường sứ Hoa; Tìm hiểu về thái độ, quan điểm đối với Trung Quốc của nho sĩ-sứ giả Nguyễn Tư Giản qua cuộc đi sứ năm 1868, Mấy vấn đề về “Mỗi hoài ngâm thảo” của Hà Đình Nguyễn Thuật, …
Quý vị quan tâm bộ sách “Thơ đi sứ triều Nguyễn: ý thức dân tộc và đối thoại văn hoá” liên lạc Ngọc Hân qua zalo 0782 787 828 hay email: han.lengoc2019@gmail.com
Bài và ảnh: LÊ NGỌC HÂN